Thời gian đăng: 20-07-2022 12:30 | 1685 lượt xemIn bản tin
Thận
Mỗi cơ thể bình thường có hai thận, thận nằm sau phúc mạc, nằm ở hố thắt lưng (tạo bởi bờ dưới xương sườn thứ 12 và bờ ngoài cơ lưng, còn gọi là góc sống sườn), có hình hạt đậu với mặt lõm gọi là rốn thận hướng vào trong. Thận được bọc bởi một bao sợi, bên ngoài có một lớp mỡ bao quanh.
Thận nằm hai bên cột sống, cực trên ngang với xương sườn thứ 11 và cực dưới ngang với mỏm ngang đốt sống L2 – l3. Thận phải thấp hơn thận trái khoảng 1 cm vì có gan nằm phía trên. Kích thước thận vào khoảng 2,5 x 6 x 11 cm.
Niệu quản
Niệu quản đi từ bể thận đến bàng quang, kích thước khoảng 25 cm, đi từ bể thận thẳng xuống bắt chéo trước động mạch chậu, chạy vào chậu hông rồi chếch ra trước và đổ vào góc sau bên bàng quang.
Thành niệu quản gồm 3 lớp: lớp niêm mạc, lớp cơ và lớp áo ngoài. Lớp cơ tạo thành sóng nhu động trong niệu quản đẩy nước tiểu từ bể thận xuống bàng quang theo tác dụng trọng lực. Niệu quản có ba chỗ hẹp sinh lý:
· Chỗ nối bể thận – niệu quản: đường kính 2 mm.
· Đoạn niệu quản bắt chéo động mạch chậu: đường kính 4 mm
· Đoạn niệu quản đổ vào bàng quang, lỗ niệu quản: đường kính 3-4 mm.
Các đoạn khác của niệu quản có đường kính lớn hơn.
Bàng quang
Bàng quang là một túi chứa nước tiểu, nằm trong khung chậu sau khớp mu, cấu tạo gồm lớp cơ, màng. Hình dạng tùy theo lượng nước tiểu chứa bên trong. Khi không có nước tiểu bàng quang xẹp xuống, khi đầy nước tiểu bàng quang căng tròn giống hình quả lê và nhô vào ổ bụng gọi là cầu bàng quang. Chỉ khám được cầu bàng quang khi bệnh nhân bị bí tiểu.
Ở cổ bàng quang - niệu đạo, cơ trơn bàng quang tạo thành cơ vòng niệu đạo trong, hoạt động không theo ý muốn. Ngược lại, cơ vòng niệu đạo ngoài hoạt động theo ý muốn.
Niệu đạo
Niệu đạo là ống dẫn nước tiểu từ bàng quang đưa ra ngoài nhờ động tác đi tiểu. Niệu đạo nữ ngắn, khoảng 2-4 cm. Niệu đạo nam dài khoảng 17 cm, gồm niệu đạo tuyến tiền liệt, niệu đạo màng, niệu đạo dương vật.
Tuyến tiền liệt
Là một tuyến tiết tinh dịch nằm ngay dưới cổ bàng quang quanh niệu đạo, nặng khoảng 20-25 gam.
PHẢN XẠ ĐI TIỂU
Ở người lớn, thể tích bàng quang khoảng 800 - 1000 ml. Khi thể tích nước tiểu tăng trên 300 ml, áp lực trong bàng quang tăng gây cảm giác mắc tiểu.
· Nước tiểu đổ đầy bàng quang sẽ kích thích các thụ thể căng ở thành bàng quang tạo ra các điện thế động được các sợi thần kinh cảm giác truyền đến đoạn cùng của tủy sống. Từ tủy sống phát ra hai luồng tín hiệu: luồng thứ nhất đi đến cơ vòng bàng quang làm dãn cơ vòng niệu đạo trong và cơ vòng niệu đạo ngoài. Luồng thứ hai đi lên trung tâm đi tiểu ở cầu não rồi tới vỏ não.
· Khi các cơ vòng đã dãn, từ tủy sống có tín hiệu đi qua dây thần kinh phó giao cảm của thần kinh chậu đến bàng quang gây co thắt cơ chóp của bàng quang. Nước tiểu chảy ra khi áp lực trong bàng quang tăng cao hơn áp lực ở niệu đạo.
· Khi không muốn đi tiểu, vỏ não sẽ ức chế phản xạ đi tiểu bằng cách ức chế trung tâm đi tiểu tại cầu não khiến cơ vòng niệu đạo ngoài, cơ vòng niệu đạo trong đóng lại. Đồng thời ức chế co cơ chóp bàng quang.
Như vậy, hoạt động bình thường của quá trình điều khiển phản xạ đi tiểu (đi tiểu theo ý muốn) đòi hỏi phải có sự toàn vẹn của vỏ não, cầu não, tủy sống, cơ bàng quang, cơ vòng niệu đạo, các dây thần kinh dẫn truyền.
Cảm giác mắc tiểu thường do căng thành bàng quang, nhưng sự kích thích bàng quang do nhiễm trùng, tia xạ, hóa chất như cyclophosphamide, ung thư … thể gây cảm giác mắc tiểu mặc dù bàng quang vẫn chưa đầy nước tiểu.
Khám niệu đạo
Ở nam, niệu đạo ở mặt dưới dương vật, sờ từ đầu dương vật lên đến niệu đạo sau, bình thường mềm mại và không đau. Lỗ niệu đạo ở nam có thể bị da qui đầu che phủ, khi khám phải kéo da qui đầu xuống. Có thể thấy bựa trắng ở rãnh bên trong da qui đầu nếu không vệ sinh sạch sẽ. Khám có thể thấy:
· Hẹp bao da qui đầu: bao qui đầu không tuột ra được
· Sùi, mồng gà ở rãnh da qui đầu
· Lỗ niệu đạo chít hẹp, nằm lạc chỗ (trên hay dưới dương vật, gần hoặc xa dương vật)
· Bóp nhẹ đầu dương vật và qui đầu xem có dịch bất thường chảy ra ở lỗ niệu đạo như mủ, máu. Viêm niệu đạo cấp sờ nắn niệu đạo có thể làm bệnh nhân đau và có giọt mủ chảy ra ở lỗ niệu đạo .
· Ngoài ra sờ nắn có thể phát hiện được các vị trí rắn xơ cứng ở niệu đạo nơi bị chít tắc, hoặc sỏi niệu đạo cho cảm giác cứng chắc. Sờ nắn niệu đạo chỉ phát hiện được các bất thường ở niệu đạo trước, không phát hiện được bất thường ở niệu đạo sau.
Ở nữ, lỗ niệu đạo nằm dưới âm vật và trên lỗ âm đạo. Lỗ niệu đạo hay bị bướu lành (bướu núm) che lấp và làm hẹp. Thăm âm đạo có thể sờ nắn được dọc suốt niệu đạo. Khi có ung thư ăn lan, có thể sờ thấy niệu đạo phình vào âm đạo như một ống cứng và máu có thể chảy ra ở lỗ niệu đạo.
Khám tuyến tiền liệt
Bệnh nhân nằm nghiêng hoặc nằm ngửa với hai chân dang rộng, gối gấp. Người khám đứng giữa hai đùi hay đứng bên phải. Dùng ngón tay trỏ có găng và bôi dầu trơn đưa vào lỗ hậu môn, nói bệnh nhân rặn. Sờ tuyến tiền liệt theo hướng từ phải, giữa, sang trái và từ đỉnh xuống đáy. Cần kết hợp đánh giá cơ vòng hậu môn, trực tràng và bàng quang (bệnh nhân phải đi tiểu hết trước khi khám).
Tuyến tiền liệt bình thường khoảng 20 gam, to hơn ngón cái một chút, mật độ mềm đều căng tương tự như chóp mũi, có rãnh giữa phân biệt hai thùy, ranh giới rõ, không đau.
· Tuyến tiền liệt phì đại lành tính thường to, mật độ mềm đều căng, mất rãnh giữa, ranh giới rõ ràng.
· Tuyến tiền liệt ung thư có thể có nhân cứng hoặc là một khối u rắn chắc không cân đối, ranh giới không rõ, không di động.
· Tuyến tiền liệt viêm cấp căng to, nóng và rất đau, có thể gây bí tiểu cấp (không nên sờ tuyến tiền liệt đang viêm cấp do có thể đẩy vi khuẩn vào máu gây nhiễm trùng huyết).